1. Hạn chế.
+ Chất lượng lao động:
Về sức khoẻ: nói chung sức khoẻ lao động Việt Nam phù hợp với công việc giúp việc gia đình, làm việc trong nhà máy. Còn với các công việc như đi biển, công nghiệp xây dựng nhất là ở khu vực Trung Đông thì chưa đạt yêu cầu. Nhiều lao động không chịu nổi điều kiện làm việc nặng nhọc và điều kiện thời tiết khắc nghiệt đã bỏ về nước.
Về trình độ tay nghề: còn khá kém, chưa đáp ứng đựơc yêu cầu của người sử dụng lao động. Lao động nước ta hiện nay tập trung chủ yếu làm các công vịêc lao động phổ thông và các công việc có hàm lượng kỹ thuật thấp vì thế thu nhập của người lao động thường không cao. Ví dụ: muốn vào làm việc ở Nhật Bản, Hàn Quốc chúng ta phải đưa lao động đi với danh nghĩa là TNS vì những nước này chưa cho phép nhập khẩu lao động không có trình độ chuyên môn hay trình độ chuyên môn thấp. Họ chỉ nhận những lao động có trình độ kỹ thụât cao. Đây cũng là thịêt thòi với lao động Việt Nam vì TNS không được hưởng chế độ đãi ngộ về lương bổng ngang bằng lao động. Hãy so sánh với Ân Độ, hàng năm số lao động đi làm việc ở nước ngoài không nhiều nhưng đã chuyển về trong nước một số tiền khổng lồ là 11 tỷ USD/năm là do lao động của họ chủ yếu làm việc trong lĩnh vực kỹ thuật cao, công nghệ cao.
Về trình độ ngoại ngữ: rất kém. Nhiều tranh chấp lao động xảy ra cũng bắt nguồn do người lao động không hiểu ý của người sử dụng lao động bởi sự bất đồng ngôn ngữ. Nhiều lao động bị trả về nước trước thời hạn do không đạt yêu cầu về trình độ ngoại ngữ. Có thể nói nếu người lao động không biết một tý gì về ngoại ngữ thì không thể đưa đi làm việc ở nước ngoài được.
+ Kỷ luật lao động: lao động Việt Nam được tiếng là cần cù, chịu khó, thông minh nhưng cũng được biết đến với tiếng tăm là kỷ luật lao động kém bởi tỷ lệ lao động bỏ trốn, phá vỡ hợp đồng khá cao gây thiệt hại cho người sử dụng lao động. Mà ở các nước công nghiệp kỷ luật lao động là vấn đề rất được coi trọng.
Nguyên nhân của vấn đề trên bắt nguồn từ chỗ: đối tượng được đưa đi làm việc ở nước ngoài đa phần là lao động nông thôn. Những lao động này phần lớn là chưa qua một lớp đào tạo chính quy nào về nghề cả. Cuộc sống làm nghề nông ở một nước còn kém phát triển như Việt Nam đã vô tình hình thành nên trong họ tác phong chậm chạp, làm liều, thiếu sự gắn bó trong hợp tác lao động, thiếu hiểu biết về sản xuất công nghiệp. Nhiều người trong số họ còn chưa học hết phổ thông. Mặt khác, những lao động này hầu hết đều có cuộc sống rất khó khăn, khi đi làm việc ở nước ngoài luôn mang trên vai gánh nặng thu nhập rất lớn nên họ thường bất chấp tất cả miễn là kiếm được tiền cao.
Hiện nay số nước tiếp nhận lao động Việt Nam đã lên tới 46 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng chủ yếu lại là các quốc gia trong khu vực Đông Nam á, Trung Bắc á, Trung Đông, một số nước ở Bắc Phi. Thị trường châu Âu và châu Mỹ là những thị trường rất hấp dẫn song chúng ta chưa tiếp cận được nhiều nếu không nói là quá ít. Đây mới chính là những thị trường đem về cho Việt Nam nguồn ngoại tệ lớn.
Nguyên nhân: do chúng ta thiếu thông tin về thị trường lao động nước ngoài; thiếu sự quảng bá, tiếp thị hàng hoá sức lao động Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, trên thực tế chất lượng hàng hoá sức lao động Việt Nam còn thấp lại mới xâm nhập vào trong lĩnh vực này nên các thị trường tiềm năng đều đã có đối thủ dày dặn kinh nghiệm hơn nhiều.
+ Trong thời gian qua, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động cấp nhà nước với các cơ quan cấp địa phương và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Chính vì thế, các cơ quan quản lý chưa nắm rõ tình hình hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Từ đó, có phương hướng chỉ đạo hay sự chấn chỉnh kịp thời để công tác xuất khẩu lao động đạt hiệu quả cao hơn.
+ Các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong lĩnh vực này chưa tổ chức việc cung cấp một cách có hệ thống thông tin thị trường lao động nước ngoài làm cơ sở cho hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp cũng như phổ cập hiểu biết cho người dân về xuất khẩu lao động.
+ Các chính sách, văn bản về xuất khẩu lao động chưa bám sát thực tế và thường đi sau thực tế.
+ Thủ tục xuất cảnh và các thủ tục khác có liên quan thường rườm rà, phức tạp gây mất nhiều thời gian và tiền của.
+ Công tác triển khai thực hiện, kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao động được tiến hành chưa thực sự nghiêm túc và có hiệu quả.
Nguyên nhân: do sự tồn tại của các tư tưởng quản lý lỗi thời như quan liêu, chủ quan, nóng vội, nể nang của các cán bộ quản lý; do sự thiếu kính phí và sự nhận thức chưa rõ ràng về tầm quan trọng của công tác quản lý xuất khẩu lao động
2. Rủi ro trong xuất khẩu lao động.
Trong thời gian trên sự rủi ro trong hoạt động xuất khẩu lao động bắt nguồn từ phía người sử dụng lao động không nhiều mà chủ yếu lại là từ người lao động. Điều này cũng cho thấy tình hình kinh tế của nước tiếp nhận lao động khá ổn định. Tuy nhiên, đầu năm 2004 vừa qua một rủi ro không may đã xảy ra với lao động Việt Nam: hơn 700 công nhân trong lĩnh vực xây dựng ở Malaysia đã bị mất việc làm.
Cũng trong thời gian trên thì tỷ lệ lao động Việt Nam phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài tuy không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ, đặc biệt là ở thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc.
Số vụ lừa đảo đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nứơc ngoài tăng lên về cả số vụ và tính nghiêm trọng.
Dạy kỹ năng sống cho trẻ 4 tuổi, trong giai đoạn này, các bé bắt đầu nhận thức rõ hơn…
Dạy trẻ kỹ năng sống tự lập từ sớm mang lại nhiều lợi ích to lớn, giúp trẻ phát triển…
Phương pháp quản lý thời gian hiệu quả nhất cho việc xử lý nhiều công việc cùng lúc thường được…
Trong thời đại hiện nay, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên quan trọng.…
Việc đào tạo văn hóa doanh nghiệp cho nhân viên mới là một yếu tố quan trọng giúp họ hòa…
Trong bối cảnh giáo dục ngày càng hội nhập toàn cầu, các trường phổ thông quốc tế đang trở thành…